Ô nhiễm không khí tại Việt Nam đang là vấn đề hiện hữu
“Việt Nam trung bình rơi vào Top 5 nơi ô nhiễm nhất trên thế giới, đỉnh điểm có những ngày đứng đầu bảng này. Phát thải khí các bon không chỉ ảnh hưởng nhiều tới cuộc sống con người, mà còn lan rộng ra tới nền kinh tế” - Ông Lương Quang Huy, Trưởng phòng Quản lý phát thải Khí nhà kính, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông Nghiệp và Môi trường nêu lên thực trạng ô nhiễm không khí tại Việt Nam.

Ông Huy cho biết thêm: “Gần đây, Việt Nam ghi nhận bán gần 100.000 xe điện, trong đó xe VinFast chiếm ưu thế với 90.000 xe và dự kiến còn tiếp tục tăng. Theo tính toán của tôi, trong vòng 5 năm trở lại đây, khi Việt Nam bắt đầu có xe điện thì toàn quốc có gần 200.000 xe điện, nếu so sánh việc sử dụng nguyên liệu sinh học với nguyên liệu khác thì đã giảm được 2 triệu tấn CO2”.
Đồng quan điểm với ông Huy, TS Trần Hữu Minh, Chánh văn phòng Uỷ ban ATGT Quốc gia phân tích: “Việt Nam đang đối mặt với thách thức lớn về an toàn giao thông khi số lượng phương tiện sử dụng động cơ đốt trong tăng nhanh chóng. Sự gia tăng này không chỉ gây ùn tắc mà còn làm trầm trọng hơn vấn đề ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông, suy giảm chất lượng cuộc sống”.
Hiện nay, về chất lượng môi trường không khí chúng ta nhận thấy rõ ràng rằng, CO2 và các chất độc hại khác đến từ nhiều nguồn khác nhau. Nhưng nhìn chung, bức tranh tổng thể ô nhiễm không khí Hà Nội đang đặt ra nhiều thách thức. Điều này được thể hiện qua số liệu, được thực hiện bằng các thiết bị quan trắc, các thiết bị đã được kiểm định. Do đó, đây là các số liệu "không biết nói dối".

Trong những báo cáo trước đây, về mặt chất lượng không khí, đối với Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, 1 năm có 365 ngày, nhưng có tới 50-60% số ngày trong năm là chỉ số chất lượng không khí vượt ngưỡng khuyến cáo, nghĩa là có những ảnh hưởng nhất định đến sức khỏe con người.
Nguồn ô nhiễm đến từ nhiều nguồn khác nhau, như từ hoạt động xây dựng, đốt rơm rạ, vận chuyển giao thông... nhưng phải nói rằng, nguồn từ giao thông vận tải đóng góp tỷ lệ tương đối cao. Bởi theo số liệu quan trắc vừa qua cho thấy, phần từ bụi và các khí thải gây ảnh hưởng tới con người có nguồn gốc từ 50-60% đến từ giao thông. Có thể nói, giao thông vận tải là tác nhân đóng góp tương đối lớn.
Về mặt nguyên tắc, chọn yếu tố tác động và thay đổi thì hoạt động giao thông vận tải sẽ là một hoạt động trọng tâm để thay đổi.
“Theo tôi, tỷ lệ sở hữu xe cơ giới ở Việt Nam là chủ đề rất hay. Thống kê cho thấy, đối với ô tô con, Việt Nam sở hữu 50 xe/1000 người dân, đây là mức rất thấp so với thế giới. Vì trung bình các nước đang phát triển có tỷ lệ sở hữu 500 xe ô tô/1000 người dân, tức Việt Nam bằng 1/10 trung bình các nước trên thế giới. Còn các nước phát triển có tỷ lệ sở hữu 700-800 xe/1000 người dân.
Tuy nhiên, khi bàn đến xe cơ giới, tức là bao gồm cả xe máy, thì Việt Nam hiện có 77 triệu xe đăng ký và số lượng xe thực sự lưu hành, chưa có con số thống kê cụ thể. Nhưng qua khảo sát, số lượng rất lớn tại các đô thị và nhiều khu vực trên cả nước. Tỷ lệ xe không còn lưu hành dao động khoảng 20%, tức còn khoảng hơn 60 triệu xe lưu hành trên tổng số 77 triệu xe đăng ký. Đây là con số rất lớn. Điều đó cho thấy, với dân số 100 triệu, xe máy là 770 xe/1000 người dân, số xe thực sự lưu hành 600 xe/1000 người dân, cộng thêm 50 xe ô tô/1000 người dân, tức tỷ lệ sở hữu 650 xe cơ giới/1000 người dân. Tỷ lệ này tương ứng với các quốc gia đang phát triển. Đây là điểm đặc thù rất lớn khi ô tô rất thấp nhưng xe máy rất cao. Đặc biệt, nhiều chuyên gia khuyến cáo chất độc hại từ xe máy rất lớn, chất hữu cơ bay hơn,... ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người” – TS Trần Hữu Minh nói.
Phát triển xe xanh là xu hướng chung
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng, ngành giao thông – đặc biệt là ô tô chạy bằng nhiên liệu hóa thạch, đang là một trong những nguồn phát thải khí nhà kính (CO₂) lớn nhất.

Nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang chuyển dịch sang xe xanh (xe điện, xe hybrid, xe chạy nhiên liệu hydro,…) như một giải pháp tất yếu để giảm thiểu ô nhiễm, tiết kiệm năng lượng và hướng tới một nền kinh tế bền vững.
Tại Việt Nam, nếu ví mỗi chiếc xe (ô tô và xe máy) lưu thông trên đường như một "trạm phát thải di động" thì Việt Nam đang có gần gần 140 triệu "trạm phát thải" như vậy (77 triệu xe máy và khoảng 6,5 triệu xe ô tô, tính đến tháng 9/2024). Và đây là tác nhân chính gây ô nhiễm không khí, ảnh hưởng tiêu cực sức khỏe người dân.
Việc chuyển đổi, thay thế những "trạm phát thải" này không chỉ là hành động phù hợp với xu thế chung trên toàn thế giới, mà còn là một nhiệm vụ cấp bách nếu Việt Nam muốn đạt mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 - còn gọi là Net Zero vào năm 2050 như Chính phủ đã cam kết với cộng đồng quốc tế.
Thời gian qua, Việt Nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ trong việc thúc đẩy thị trường xe "xanh", được dự báo sẽ tăng trưởng mạnh trong tương lai, cùng quy mô dân số lớn đứng thứ 3 ASEAN.
Cả Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp đều đã có nhiều hành động thiết thực để cùng chung tay tạo động lực mới cho ngành ô tô, mở lối cho những chiếc xe "xanh" lăn bánh, tạo nên một không gian giao thông xanh, sạch hơn.

Đánh giá về vấn đề này, TS Trần Hữu Minh cho hay: “Đối với Việt Nam, dù chúng ta đều dễ dàng nhận ra năng lượng hoá thạch sẽ dần hết, và không còn vào tương lai, việc chuyển sang năng lượng điện là cần thiết. Chúng ta đang có xu hướng người dân sử dụng phương tiện cá nhân tăng cao, điều này không có gì sai cả. Bởi khi tăng trưởng kinh tế tăng cao, thu nhập người dân tăng cao, đời sống tăng cao thì việc sử hữu thêm tài sản là phương tiện thể hiện sự thịnh vượng, phát triển của xã hội.
Do đó, chúng ta tiến hành xanh hoá phương tiện càng nhanh càng tốt, càng ít bị tổn thương trong lĩnh vực năng lượng. Theo tôi, sự dẫn dắt từ cơ quan quản lý, có vai trò rất lớn để chúng ta đạt được các mục tiêu đề ra”.
Vai trò của các chính sách thúc đẩy xe xanh
“Nhà nước thời gian gần đây hỗ trợ rất tốt với dòng xe xanh (bao gồm cả xe điện, xe hybrid…). Đây cũng là một trong những sự thành công khi sự chuyển dịch sang dòng xe xanh rất mạnh mẽ. Không chỉ thuế trước bạ, mà còn thuế tiêu thụ đặc biệt, nhập khẩu,...” - Ông Đào Công Quyết, Trưởng tiểu ban Truyền thông – Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) đưa ý kiến.

Chúng tôi đánh giá cao sự đóng góp không nhỏ từ các ưu đãi thuế cho xe xanh vào quyết định mua sắm của khách hàng. Tuy nhiên, nói về tổng thể, chúng tôi hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, có những đề nghị mục tiêu dài hơi với Chính phủ và nhận được những tín hiệu tích cực.
Chúng tôi chia làm 3 giai đoạn: 2022-2030 hòa tan thị trường; 2030 - 2040 phát triển thị trường và sau năm 2040 và phát triển bền vững... Đề nghị tiêu chí hỗ trợ chính sách cho những dòng xe điện hóa như BEV, HEV,... hỗ trợ hệ thống hạ tầng trạm sạc... Do vậy, với các hỗ trợ cho khách hàng và nhà sản xuất, thuế trước bạ, đồng ý hoàn toàn là mức 100% với xe điện là rất tốt. Nhưng VAMA đề nghị hỗ trợ 70% xe PHEV và 50% cho xe HEV.
“Về tổng thể, chúng tôi đã thấy có Quyết định 1168/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô đến năm 2025, tầm nhìn năm 2050. Bộ Công thương cũng đã có Dự thảo chiến lược phát triển xe điện năm 2050. Tuy nhiên, cần có các chính sách hỗ trợ cụ thể cho dòng xe điện hoá như xe HEV hoặc PHEV. Vì xe xanh không chỉ có mỗi xe điện, mà còn là xe hybrid, xe chạy khí hydro. Trong xe hybrid lại chia ra nhiều loại như HEV, PHEV như tôi vừa nhắc tới” – ông Quyết nói.

Với người tiêu dùng, Cơ quan quản lý cần hỗ trợ thuế trước bạ, phí đỗ xe, các phí khác để người tiêu dùng làm quen chuyển dần sang dùng xe điện.
Điều quan tâm là hạ tầng sạc gồm nguồn điện, trạm sạc. Hiện nay, Việt Nam đang đánh thuế theo dung tích xilanh, nhưng chúng tôi đang đề xuất đánh thuế theo phát thải CO2 đối với các dòng xe.
Hiện nay, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt đang được soạn thảo sửa đổi, chúng tôi đề nghị xe điện được hỗ trợ 100%. Dòng xe PHEV, cũng phải được hỗ trợ 70% với dòng xe tương đương. Mong Quốc hội, các cơ quan quản lý nhà nước xem xét, lắng nghe ý kiến.